Pháp lý chủ quyền Xung đột giành quyền kiểm soát tại quần đảo Trường Sa 1988

Bài viết (hoặc đoạn) này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. Có thể có thảo luận liên quan tại trang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này.

Địa lý quần đảo

Trường Sa cách lục địa Trung Hoa khoảng 750 hải lý, nên không nằm trong thềm lục địa của Trung Quốc. Hoàng Sa cũng cách Hoa lục tới 270 hải lý.

Tại bờ biển Việt Nam, thềm lục địa chạy thoai thoải từ dãy Trường Sơn ra Hoàng Sa. Về địa hình, Hoàng Sa là một hành lang của Trường Sơn từ Lý Sơn ra khơi. Đây là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Năm 1925, nhà địa chất học quốc tế, Tiến sĩ Khoa học A. Krempf, Giám đốc Viện Hải học Đông Dương, sau hai năm nghiên cứu và đo đạc đã lập phúc trình và kết luận: "Về mặt địa chất, những đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam" (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam).[cần dẫn nguồn]

Tại Trường Sa cũng vậy. Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo-cồn-đá-bãi ở Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm lục địa Việt Nam. Tại bãi Tư Chính, nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400 m, và tại vùng đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200 m. Bãi Tư Chính cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách lục địa Trung Hoa tới 780 hải lý. Trường Sa cách Việt Nam 220 hải lý và cách Hoa lục 750 hải lý. Từ Trường Sa về bờ biển Trung Hoa có rãnh biển sâu hơn 4.600 m.

Quần đảo Trường Sa là một nhóm gồm hơn một trăm đảo san hô, cồn cát, rạn san hô (gồm rạn san hô thường và các đảo san hô vòng), bãi cạn và bãi ngầm đang trong tình trạng tranh chấp ở Biển Ðông. Là một phần của các đảo ở biển Ðông, quần đảo Trường Sa được bao quanh bởi những ngư trường lớn và giàu dầu mỏ, khí đốt, hiện vùng mở rộng (diện tích) của nó vẫn còn chưa được biết và đang trong vòng tranh cãi. Việt Nam, Trung Hoa Dân quốc (Ðài Loan) và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo, trong khi Brunei, MalaysiaPhilippines, mỗi nước chỉ tuyên bố chủ quyền nhiều phần.

Tranh chấp chủ quyền tại 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa

Nhiều nước tham gia cuộc tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa có quân đội đóng trên từng phần của quần đảo Trường Sa và kiểm soát nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá chìm khác nhau. Ðài Loan chiếm đảo lớn nhất là đảo Ba Bình. Tháng 2 năm 1995, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm đá Vành Khăn (Mischief Reef), gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị lớn ở Đông Nam Á, đặc biệt với Philippines. Ðầu năm 1999, những cuộc tranh cãi lại tăng lên khi Philippines tuyên bố rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang xây dựng đồn bốt quân sự trên đá ngầm. Mặc dầu những sự tranh cãi sau đó đã giảm bớt một chút nhưng chúng vẫn là một trong những nguyên nhân có thể gây ra một cuộc chiến lớn ở Ðông Á có sự tham gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay một cuộc chiến nhỏ hơn giữa các nước tuyên bố chủ quyền khác.

Theo các tài liệu Việt Nam, ít nhất từ 1816, dưới đời vua Gia Long, Nhà Nguyễn Việt Nam đã chiếm cứ công khai và thực hiện chủ quyền một cách liên tục, hòa bình các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt triều đại Nhà Nguyễn. Sau khi chiếm được Đại Nam (tức Việt Nam thời Nhà Nguyễn), nước Pháp tiếp tục thực thi quyền chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bia chủ quyền do người Pháp (nhà nước bảo hộ Việt Nam thời thuộc Pháp), trực tiếp thực thi quyền chủ quyền tại quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa, dựng năm 1938 có ghi rõ:

République française [Cộng hòa Pháp]Empire d’Annam [Đế quốc An Nam]Archipel des Paracels [Quần đảo Hoàng Sa]1816 - Île de Pattle 1938 [Đảo Hoàng Sa]

Theo phía Việt Nam, lịch sử Trung Quốc không có bằng chứng đủ để chứng minh họ đã liên tục chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa từ đời Hán Vũ Đế hay ít nhất từ đời Mãn Thanh, bản đồ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" (Địa dư toàn đồ tới các tỉnh của Trung Quốc được thực hiện dưới thời Nhà Thanh) xuất bản năm 1904 ghi rõ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không hề bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.[20]

Ngược lại, phía Trung Quốc cũng tuyên bố họ có chủ quyền từ suốt 2.000 năm qua đối với quần đảo Hoàng SaTrường Sa. Bằng chứng của họ là một số di tích văn hóa Trung Quốc[cần giải thích (nêu rõ tên di tích)] tại quần đảo Hoàng Sa có niên đại từ thời kỳ Nhà ĐườngNhà Tống[21][note 1] và có một số bằng chứng về nơi cư trú của người Trung Quốc trên các đảo[cần giải thích (nêu rõ tên đảo)] trong giai đoạn này.[22] Trong cuốn sách Võ công thông bảo, được xuất bản trong triều Nhà Tống năm 1044, có ghi nhận lãnh thổ Trung Hoa bao gồm các quần đảo này trong khu vực tuần tra của Hải quân Nhà Tống.[23]

Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1887 (Công ước hoạch định biên giới Pháp - Thanh về biên giới giữa Trung Quốc với Bắc Kỳ - Convention relative à la delimitation de la frontìere entre la Chine et le Tonkin), còn gọi là Công ước Constans, ra đời ngày 26-6-1887, nội dung của công ước này nhằm phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Tonkin) và Trung Quốc:[24] Pháp công nhận các đảo ở về phía Đông của đường kinh tuyến đông 105 độ 43 phút Paris (có nghĩa là đường thẳng Bắc-Nam đi qua đông điểm của đảo Trà Cổ) thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Dựa vào điều này, Trung Quốc cho rằng Pháp đã công nhận Trung Quốc có chủ quyền tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.[25] Phía Việt Nam thì cho rằng công ước này bị các học giả Trung Quốc diễn giải sai,[26] bởi công ước không đề cập quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa; và vì đây là công ước về biên giới trên biển vịnh Bắc Bộ (Tonkin) nên phải hiểu biên giới này chấm dứt ở điểm ngang với ranh giới mà trước kia Pháp đã ấn định giữa Bắc Kỳ (Tonkin) và An Nam (tức là ranh giới giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam). Do đó phía Việt Nam cho rằng sự phân định này chỉ áp dụng ở vịnh Bắc Bộ, không có giá trị với Trung Quốc trên toàn tuyến biển của Việt Nam.

Dù sao đi nữa thì vào thời kỳ này, Pháp đã không đóng giữ Trường Sa và Nhà Thanh đã gửi lực lượng hải quân tới các đảo vào năm 19021907, đặt cờ và đánh dấu trên các đảo. Kế đó, Trung Hoa Dân quốc đã tuyên bố quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc thẩm quyền của quận Hải Nam.[27]

Năm 1927, Tàu SS De Lanessan của chính phủ Pháp tiến hành một cuộc khảo sát khoa học trên quần đảo Trường Sa. Năm 1930, chính phủ Pháp tiến hành cuộc khảo sát thứ hai bằng chiếc La Malicieuse, treo cờ Pháp trên một đảo tên là île de la Tempête (có nghĩa là đảo Bão Tố, tức đảo Trường Sa ngày nay). Ngư dân người Trung Quốc đã có mặt trên đảo nhưng người Pháp cũng không trục xuất họ. Năm 1933, 3 tàu Pháp chiếm quyền kiểm soát chín đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với quần đảo này. Pháp đưa quần đảo Trường Sa vào thuộc quyền quản lý của xứ Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên bang Đông Dương.

Năm 1932, Trung Hoa Dân quốc gửi tới chính phủ Pháp một bản ghi nhớ, trong đó chỉ trích Pháp đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa, vốn đã được Pháp công nhận tại bản Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1887. Tuy nhiên, do trong nước hỗn loạn nên Trung Hoa Dân quốc không có hành động quân sự trả đũa Pháp. Trung Quốc chỉ thực sự đưa quân tới đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1946 sau Thế chiến thứ Hai, đổ bộ xuống phá bỏ các mốc chủ quyền của Pháp trước đó. Năm 1948, do nội chiến xảy ra ở Trung Quốc giữa Trung Hoa Dân quốc với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân quốc buộc phải rút khỏi quần đảo Trường Sa.

Đế quốc Nhật Bản cũng tranh giành chủ quyền với Pháp về quần đảo Trường Sa, năm 1933 họ đưa ra bằng chứng về việc khai mỏ phosphat của các công dân Nhật. Năm 1939, Nhật tuyên bố ý định đặt quần đảo dưới quyền tài phán của họ. Năm 1941, Nhật dùng vũ lực chiếm quần đảo Trường Sa và tiếp tục kiểm soát nó tới cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cai quản vùng này như một phần của Đài Loan thuộc Nhật. Một căn cứ tàu ngầm được thiết lập ở đảo Ba Bình. Năm 1951, Nhật Bản ký Hiệp ước San Francisco và chấp nhận từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng cuối Thế chiến thứ hai, PhápTrung Hoa Dân quốc tái khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Trung Hoa Dân quốc đổ quân lên đảo Ba Bình, chiếm giữ đến năm 1948. Từ 1946 đến năm 1948, Pháp gửi tàu chiến tới tuần tra quần đảo Trường Sa nhiều lần, và yêu cầu Trung Hoa Dân quốc rút khỏi quần đảo Trường Sa nhưng không tấn công quân Trung Hoa. Các bên chủ chốt hiện nay đang tranh chấp quần đảo Trường Sa thực sự đưa quân đến chiếm hữu lâu dài trở lại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa là từ năm 1956.

Ngày 7 tháng 7 năm 1951 Trần Văn Hữu, Chủ tịch Phái đoàn Chính phủ Quốc gia Việt Nam (ở thời điểm đó nằm trong Liên hiệp Pháp tức là thuộc sự kiểm soát của nước Pháp), tới dự Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản tuyên bố rằng quần đảo Hoàng SaTrường Sa từ lâu đã thuộc về lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, tuyên bố này không được hội nghị công nhận do một số nước khác cũng tuyên bố chủ quyền tại đây. Do nhiều tranh cãi giữa các bên, vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị bỏ ngỏ, Hội nghị San Francisco không xác nhận chủ quyền của bất kỳ nước nào tại 2 quần đảo này, và văn kiện của hội nghị ký ngày 8 tháng 9 năm 1951 chỉ ghi về hai quần đảo là "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với hai quần đảo".

Theo Hiệp định Genève năm 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do có vĩ độ nằm phía Nam vĩ tuyến 17, vĩ tuyến được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự, nên thuộc vùng tập trung của khối Liên hiệp Pháp (bao gồm cả chính phủ Quốc gia Việt Nam).

Ngày 20 tháng 5 năm 1956[28] (một số nguồn cho là tháng 7 hoặc tháng 10[29]) Đài Loan (tức Trung Hoa Dân quốc sau năm 1949) quay lại chiếm giữ, xây dựng cơ sở quân sự và kiểm soát đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam Cộng hòa đưa quân ra chiếm lại vào tháng 8 năm 1956 (đã tuyên bố chủ quyền vào tháng 6), nhưng sau đó, nhân dịp lễ Song thập 10/10, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh rút quân khỏi đảo Ba Bình, và Đài Loan kiểm soát đảo cho đến tận ngày nay.

Lần đầu tiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tức Trung Quốc) chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa (các đảo thuộc nhóm An Vĩnh trong đó có đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm) năm 1956, đến tháng 1 năm 1974 Trung Quốc chiếm được toàn bộ quần đảo này. Trước năm 1988, Trung Quốc chưa chiếm hữu bất cứ một phần nào của quần đảo Trường Sa.

Tháng 4 năm 1956, Việt Nam Cộng hòa kế thừa Quốc gia Việt Nam tuyên bố quản lý quần đảo Hoàng Sa, nhưng chỉ chiếm hữu được toàn bộ phần phía Tây của quần đảo này (tức là nhóm Lưỡi Liềm bao gồm đảo Hoàng Sa). Ngày 22 tháng 8 năm 1956, một đơn vị hải quân Việt Nam Cộng hòa cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá. Đến ngày 22 tháng 10 thì chính phủ Việt Nam Cộng hòa tuyên bố Trường Sa phụ thuộc tỉnh Phước Tuy,[30][31] thực hiện chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa tại quần đảo Trường Sa.

Ngày 19 tháng 1 năm 1974, trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Trung Quốc chiếm phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng hòa. Ngày 20 tháng 1 năm 1974 (ngay sau khi diễn ra trận Hải chiến Hoàng Sa), Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập) đã ra bản tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc.[32] Cùng năm 1974, Việt Nam Cộng hòa ra tuyên cáo[33] về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1975, Việt Nam Cộng hòa công bố bạch thư[34] tuyên bố chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời tố cáo Trung Quốc tấn công quân lực Việt Nam Cộng hòa để chiếm quần đảo Hoàng Sa vào ngày 20 tháng 1 năm 1974.

Philippines lần đầu tiên tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc năm 1946, thì sự dính líu nghiêm túc của họ chỉ diễn ra vào năm 1956 khi vào ngày 15 tháng 5 công dân Philippines là Tomas Cloma tuyên bố lập ra một nhà nước mới, Kalayaan (Vùng đất tự do). Năm 1968 Philippines gửi quân tới ba đảo để bảo vệ các công dân Kalayaan và tuyên bố sáp nhập nhóm đảo Kalayaan. Năm 1972, Philippines sáp nhập các đảo Kalayaan (tức phần quần đảo Trường Sa) vào tỉnh Palawan của họ.

Năm 1971, Malaysia đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Tới năm 1983, Malaysia chiếm một đảo thuộc quần đảo Trường Sa.

Năm 1984, Brunei thiết lập một vùng đánh cá đặc quyền gồm cả đảo chìm Louisa ở phía Nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai tuyên bố chủ quyền vùng đó.

Tuyên bố chủ quyền của hai bên

Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra bản "quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc" trong đó có đề cập tới Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng có gửi một công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Về sau công hàm này (được/bị) phía Trung Quốc diễn giải là sự thừa nhận của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (là một bên không tham gia vào tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa) về chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa.[35][36] Nhưng theo tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á, khi trả lời phỏng vấn của Đài BBC, đã cho rằng cả Công hàm của Phạm Văn Đồng cũng như "tuyên bố miệng" của Ung Văn Khiêm năm 1956 đều không có sức nặng ràng buộc.[36] Theo Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nhà nước duy nhất kế thừa chủ quyền của Việt Nam từ 2 nhà nước trước đó là Cộng hòa Miền Nam Việt NamViệt Nam Cộng hòa) về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa ngày 7 tháng 8 năm 1979 thì: Sự diễn giải của Trung Quốc về bản công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 như một sự công nhận chủ quyền của phía Trung Quốc trên các quần đảo "là một sự xuyên tạc trắng trợn trên tinh thần và ý nghĩa của bản công hàm chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc". Theo báo Đại Đoàn Kết, một tờ báo chính thống của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì, Bắc Kinh (tức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) đã diễn giải công hàm của Phạm Văn Đồng một cách xuyên tạc, khi nội dung công hàm không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa, không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với 2 quần đảo này, mà chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, một hành động ngoại giao hữu nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với Bắc Kinh trong bối cảnh căng thẳng giữa Bắc Kinh với Đài Loan (tức Trung Hoa Dân quốc) đang gia tăng ở eo biển Đài Loan.

Về phương diện luật pháp quốc tế, Hoàng Sa và Trường Sa, vào thời điểm 1958-1975, không thuộc quyền quản lý của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên chính phủ này không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này. Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó, trên danh nghĩa thuộc quyền quản lý của 2 chính phủ tồn tại song song ở miền Nam Việt Nam khi đó (Việt Nam Cộng hòaCộng hòa Miền Nam Việt Nam), nên trong tranh chấp 2 quần đảo này vào thời điểm năm 1958 đến năm 1975, lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xem như của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.[37][38][39]

Tháng 7 năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản, Quốc gia Việt Nam tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tuyên bố này không bị bác bỏ hay bảo lưu ý kiến nào của 51 nước có mặt tại hội nghị. Tuy nhiên, hội nghị San Francisco không xác nhận chủ quyền của bất kỳ nước nào ở Hoàng Sa và Trường Sa, 2 quần đảo này được xem là vô chủ. Tháng 4 năm 1950 Pháp trao lại quyền quản lý quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) cho chính phủ Quốc gia Việt Nam nhưng việc đồn trú vẫn do quân đội Pháp đảm nhiệm, và khi người Pháp rời khỏi Việt Nam sau Hiệp định Genève năm 1954, quyền kiểm soát thuộc về Quân đội Quốc gia Việt Nam và kế tiếp là Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện đóng giữ Trường Sa. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, các lực lượng hải quân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiếp quản quần đảo cho đến nay.

Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nhà nước duy nhất kế thừa tất cả các nhà nước tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam trước năm 1976, bao gồm cả hai nhà nước trước đó là Cộng hòa Miền Nam Việt NamViệt Nam Cộng hòa từng tuyên bố chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa) công bố bị vong lục về vấn đề biên giới Việt - Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trước đó (các năm 1956, 1974). Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu mười chín tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.[40]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Xung đột giành quyền kiểm soát tại quần đảo Trường Sa 1988 http://big5.cri.cn/gate/big5/gb.cri.cn/2201/2006/0... http://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3754/t19232.htm http://news.abs-cbn.com/global-filipino/07/11/11/s... http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/03/1603... http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/03/1603... http://history.huanqiu.com/china/2011-07/1843638_3... http://news.ifeng.com/a/20160206/47379441_0.shtml http://www.milnews2.com/2014/0228/57643_3.html. http://www.philstar.com/headlines/2016/03/02/15586... http://m.sohu.com/n/469505033/